Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2024
Mỗi
lúc
đến
một
vùng
đất
mới
sinh
sống,
mỗi
lần
chuyển
nhà
mới,
hoặc
mỗi
lần
"rũ
áo
phong
sương
trên
quán
trọ"
ở
vùng
xa
xôi
nào
đó
(có
thể
tít
bên
kia
bán
cầu)…
-
tôi
-
hay
bạn
hẳn
đều
tự
hỏi:
Đã
bao
nhiêu
người
đã
sinh
sống
rồi
chia
tay
cái
chỗ
mình
đang
gắn
bó
lúc
này
đây?
Các
cụ
dạy:
"Đất
trăm
người
ở,
ruộng
trăm
người
cày",
có
thể
nơi
bạn
ở
vốn
là
một
nghĩa
địa
hoặc
là
cù
lao
ở
giữa
một
con
sông
nước
xiết,
hoặc
là
cả
hai
"bãi
bể
nương
dâu"
ấy
trong
các
giai
đoạn
khác
nhau
của
nghìn
năm,
nhiều
vạn
đến
cả
triệu
năm
lịch
sử...
Khi
ông
thành
hoàng
đi
theo
"dòng
trôi"
của
đất
bồi
lở
Dòng
sông
Hồng
đỏng
đảnh
bồi
lở,
đến
mức:
các
ngôi
đình
làng
cứ
mang
tên
trùng
nhau
ở
hai
tỉnh,
dọc
hai
bờ
con
sông
lớn
nhất
châu
thổ
Bắc
Bộ.
Là
bởi
vì
sông
chảy
từ
vùng
Vân
Nam
của
Trung
Quốc,
kéo
đến
cửa
Ba
Lạt
ở
Thái
Bình
đã
có
chiều
dài
1.100km,
trong
đó
hơn
500km
uốn
khúc
trên
đất
Việt
Nam.
Sông
Cái
đến
quê
tôi
sau
khi
thôn
tính
cả
sông
Đà
vào
bụng
nước
của
mình
ở
ngã
ba
trên
phía
Trung
Hà
rồi.
Ngoạm
ít
năm
thôi,
sông
ăn
hết
làng
mạc
bên
hữu
ngạn,
dân
mất
đất
cày
cấy,
mất
nhà
cửa
đình
chùa.
Họ
kêu
than,
vua
xưa
bảo:
đất
của
các
ngươi,
trước
ở
bên
này,
giờ
ụp
xuống
sông,
thì
kiểu
gì
nó
cũng
quẩn
sang
bên
kia
để
bồi
lắng.
Chứ
nó
chạy
đi
đâu
được.
Sang
đó
mà
lập
ấp,
dựng
một
toà
đình
mới,
ta
có
sắc
phong
ngay.
Câu
chuyện
của
bà
Lạc
tại
Bảo
tàng
Dân
tộc
học
sau
khi
trình
diễn
chế
biến
đất
ăn
và
ăn
đất
khiến
tôi
(trái)
bật
cười.
T.G
Vài
đời
sau,
chắc
đến
ông
vua
khác
rồi,
bên
kia
lại
bị
sông
ngoạm
(lở)
mất
làng
mạc,
nhà
cửa,
đình
điếm
-
thế
là
họ
lại
di
sang
bên
bồi
để
ở
và
xây
dựng
đình
làng.
Từ
bấy,
lúc
vào
nghề
báo
năm
1998,
tôi
đã
đi
viết
về
những
ngồi
đình,
các
cái
xóm
có
tên
trùng
nhau
ở
hai
bên
bờ
sông,
các
cộng
đồng
dân
cư
vốn
có
chung
huyết
thống,
thờ
chung
một
ông
thành
hoàng,
(đôi
khi)
cứ
zích
zắc
"nhân
bản"
trùng
tên
dọc
hai
bên
bờ
sông
Hồng…
Hành
trình
đất
lở
đất
bồi,
hành
trình
người
dân
đi
tìm
và
gắn
bó
với
đất
là
như
thế.
"Khi
ta
ở
chỉ
là
nơi
đất
ở,
khi
ta
đi
đất
đã
hóa
tâm
hồn".
Sống
lâu
thì
người
ta
"về
với
đất",
giờ
hoả
táng
thì
chung
quy,
cơ
bản
vẫn
là
đem
"yểm"
xương
cốt
hoặc
bột
xương
cốt
xuống
đất
mẹ
bao
dung.
Cánh
đồng
làng
là
nơi
cho
mùa
vàng,
cũng
là
nơi
nương
náu
của
mọi
linh
hồn
sau
hành
trình
kiếp
phận
trên
trần
gian.
Người
quê
tôi
gắn
bó
với
nhau,
có
khi
đôi
trai
gái
không
lấy
được
nhau
khi
trai
trẻ,
họ
hẹn
nhau
khi
góa
bụa
về
già
ở
chốn
quê
sau
cái
đời
đi
bạt
gió.
Rồi
lại
hẹn
nhau
trên
cánh
đồng
làng.
Nơi
vĩnh
viễn
không
có
sự
chia
xa
nào
nữa.
Hình
ảnh
đầu
tiên
về
tục
ăn
đất
ở
miền
núi
A
Pa
Chải
được
tôi
công
bố
trên
báo
chí.
Đ.D.H
Ở
các
vùng
sông
nước
mênh
mông
như
ĐBSCL,
bao
đời
trù
phú.
Hồi
mới
tập
tễnh
khám
phá
miền
Tây
Nam
Bộ,
khi
vẫn
còn
tuổi
đôi
mươi,
tôi
thắc
mắc:
sao
mỗi
đô
thị
xứ
này
cứ
đều
đặn
cách
nhau
sáu
bảy
tám
chục
cây
số
nhỉ?
Sài
Gòn
-
Mỹ
Tho
-
Vĩnh
Long
-
Bến
Tre
-
Trà
Vinh
-
Cần
Thơ
-
Sa
Đéc
-
Sóc
Trăng
-
Bạc
Liêu
-
Cà
Mau…
Tôi
thử
đi,
tôi
thử
đo,
tôi
hỏi
các
nhà
nghiên
cứu,
thì
hoá
ra:
xưa,
hồi
"bộ
khôn
bằng
ngựa,
thuỷ
khôn
bằng
thuyền",
lưu
dân
giong
thuyền
từ
xứ
nọ
sang
xứ
kia,
đi
từ
sáng
đến
tối
phải
nghỉ
ở
một
vở
đất,
một
khu
tá
túc
ăn
ngủ
nào
đó
(sau
này
là
khu
tiếp
nhiên
liệu,
giải
trí,
giao
lưu,
mua
bán
nữa).
Thế
thì
tốc
độ
thuyền
hồi
đó,
đi
một
ngày
được
khoảng
sáu,
bảy,
tám
chục
cây
số.
Họ
nghỉ,
thì
phải
có
dịch
vụ,
thế
là
hình
thành
một
khu
thị
tứ,
phình
ra
tí
nữa
là
một
thị
trấn,
quy
mô
thêm
chút
đỉnh
lại
thành
một
huyện,
tiến
tới
là
một
tỉnh.
Làm
đất
cấy
lúa
ở
huyện
Giang
Thành,
Kiên
Giang.
Ảnh:
Cao
Kỳ
Nhân
Ba
chữ
"cánh
đồng
làng"
bao
giờ
cũng
vang
lên
trong
những
người
con
xa
xứ
cùng
với
sự
ấm
áp
và
nỗi
niềm
"ta
về
với
mẹ
ta
thôi".
"Gió
đồng
rửa
mặt
tha
hương
/Ta
về
quê
chữa
vết
thương
giang
hồ".
Tương
tự,
ở
miền
núi
phía
Bắc,
chúng
tôi
cứ
đi
bộ
từ
tinh
mơ,
cơm
đùm
cơm
nắm,
vừa
đi
vừa
phát
đường
đuổi
vắt,
lúc
tối
giời
là
y
như
có
một
cái
chòm
dân
cư
hiện
ra.
Tôi
ào
ra
suối
tắm,
bỏ
cái
ba
lô,
cái
áo
khoác
ở
vai
ghế
nhà
nào
đó.
Là
tự
khắc
bà
con
sẽ
nấu
cơm,
dọn
giường,
bữa
đến
ra
suối
hú
gọi
cán
bộ
về
ăn
và
kin
lẩu
(uống
rượu).
"Tối
đâu
là
nhà,
ngã
đâu
là
giường",
là
hành
trình
và
phong
cách
của
những
kẻ
leo
núi
như
tôi
lúc
bấy
giờ.
Và
tôi
hiểu,
"đất
quê
ta
mênh
mông",
từ
sự
gắn
bó
với
đất
đai,
với
không
gian
sống
của
mỗi
thành
viên,
mỗi
nhu
cầu
trong
cộng
đồng;
mà
mọi
thứ
ra
đời
theo
một
quy
luật
vừa
dễ
hiểu
vừa
kỳ
thú
như
thế.
Ở
đất,
ăn
đất
"Đất
chăng
dây,
cây
dựng
sào",
đó
là
quy
định
"dân
gian"
trong
xử
lý
các
vấn
đề
đất
đai,
tranh
chấp,
chia
tài
sản.
"Về
với
đất"
là
bà
con
ta
ấm
áp
nói
về
sự
chia
xa
cõi
trần
gian
tục
lụy.
Ở
nhiều
vùng
tại
Việt
Nam,
ở
nhiều
quốc
gia,
người
dân
còn
có
thói
quen
lạ…
là
ăn
đất
theo
đúng
nghĩa
đen.
Tôi
phát
hiện
điều
này
tình
cờ
vào
năm
2002,
khi
đi
bộ
dọc
biên
giới
Việt
Trung,
có
mặt
ở
nga
ba
biên
giới
A
Pa
Chải,
huyện
Mường
Nhé,
tỉnh
Điện
Biên.
Vợ
của
ông
Phó
Chủ
tịch
UBND
xã
Chung
Chải,
cùng
cô
cháu
gái
tên
là
Pó
Sờ
gùi
đồ
giúp
tôi
khi
đi
bộ
vượt
núi
băng
rừng
nhiều
ngày
trời.
Lúc
ngồi
nghỉ,
bà
và
Pó
Sờ
cứ
moi
các
viên
đất
từ
vách
núi
ra
ăn
ngon
lành.
Như
người
ta
ăn
bánh
bao
hay
kẹo
lạc
vậy.
Tôi
phỏng
vấn,
về
mở
rộng
tìm
hiểu,
hoá
ra
ở
Hà
Nội
có
chuyên
gia
đã
nghiên
cứu
ban
đầu
về
chuyện
này,
với
huyền
tích
từ
thời
Hùng
Vương.
Sau
bài
báo
đầu
tiên,
tôi
đón
tiếp
nhiều
chuyên
gia
ở
các
viện
nghiên
cứu,
chúng
tôi
tổ
chức
các
cuộc
hội
thảo
quốc
tế
về
chủ
đề
này,
có
chuyên
gia
văn
hoá,
lịch
sử,
dân
tộc,
có
cả
các
nhà
dinh
dưỡng
học...
Hóa
ra,
trong
một
số
hoàn
cảnh
và
ở
nhiều
vùng
quê
đặc
trưng,
đất
ăn
cũng
"tốt
cho
sức
khoẻ"
và
bổ
sung
nhiều
vi
chất
cho
cư
dân.
Có
nhiều
nhà
báo
cùng
vào
cuộc
phân
tích,
đặc
biệt,
VTV3
làm
chương
trình
"Chuyện
lạ
Việt
Nam"
xung
quanh
cuộc
trình
diễn
nghề
"nướng"
(hun
khói
cho
thơm)
đất
bằng
lá
mua,
lá
sim
để
ăn
tại
Bảo
tàng
Dân
tộc
học.
Tôi
lái
xe
đưa
bà
Lạc
(người
ở
tỉnh
Vĩnh
Phúc)
về
Hà
Nội
trình
diễn
ăn
đất
và
chế
biến
đất
ăn.
Sau
này,
nhiều
công
trình
nghiên
cứu
ra
đời,
họ
mở
rộng
tìm
hiểu,
hóa
ra,
ở
Đức,
họ
còn
sản
xuất
đất
ăn,
đựng
vào
những
cái
lọ
rất
đẹp,
bán
trong
siêu
thị
sang
trọng.
Tôi
cũng
chứng
kiến
nhiều
cảnh
ăn
đất
trên
cả
nước.
Ở
huyện
Lập
Thạch,
tỉnh
Vĩnh
Phúc,
gần
đây
tôi
gặp
lại
bà
con
có
nghề
dịch
vụ
"chế
biến
đất
ăn".
Họ
đào
vườn
thành
những
giếng
sâu,
sau
khi
moi
hết
đất
màu
trăng
trắng,
ăn
mềm
mềm
bùi
bùi
lên
để
hun
khói
thơm
tho,
bán
ra
chợ
như
một
món
quà
quê
có
từ
thời
thượng
cổ…
lúc
đến
một
vùng
đất
mới
sinh
sống,
mỗi
lần
chuyển
nhà
mới,
hoặc
mỗi
lần
"rũ
áo
phong
sương
trên
quán
trọ"
ở
vùng
xa
xôi
nào
đó
(có
thể
tít
bên
kia
bán
cầu)…
-
tôi
-
hay
bạn
hẳn
đều
tự
hỏi:
Đã
bao
nhiêu
người
đã
sinh
sống
rồi
chia
tay
cái
chỗ
mình
đang
gắn
bó
lúc
này
đây?
Các
cụ
dạy:
"Đất
trăm
người
ở,
ruộng
trăm
người
cày",
có
thể
nơi
bạn
ở
vốn
là
một
nghĩa
địa
hoặc
là
cù
lao
ở
giữa
một
con
sông
nước
xiết,
hoặc
là
cả
hai
"bãi
bể
nương
dâu"
ấy
trong
các
giai
đoạn
khác
nhau
của
nghìn
năm,
nhiều
vạn
đến
cả
triệu
năm
lịch
sử...
Khi
ông
thành
hoàng
đi
theo
"dòng
trôi"
của
đất
bồi
lở
Dòng
sông
Hồng
đỏng
đảnh
bồi
lở,
đến
mức:
các
ngôi
đình
làng
cứ
mang
tên
trùng
nhau
ở
hai
tỉnh,
dọc
hai
bờ
con
sông
lớn
nhất
châu
thổ
Bắc
Bộ.
Là
bởi
vì
sông
chảy
từ
vùng
Vân
Nam
của
Trung
Quốc,
kéo
đến
cửa
Ba
Lạt
ở
Thái
Bình
đã
có
chiều
dài
1.100km,
trong
đó
hơn
500km
uốn
khúc
trên
đất
Việt
Nam.
Sông
Cái
đến
quê
tôi
sau
khi
thôn
tính
cả
sông
Đà
vào
bụng
nước
của
mình
ở
ngã
ba
trên
phía
Trung
Hà
rồi.
Ngoạm
ít
năm
thôi,
sông
ăn
hết
làng
mạc
bên
hữu
ngạn,
dân
mất
đất
cày
cấy,
mất
nhà
cửa
đình
chùa.
Họ
kêu
than,
vua
xưa
bảo:
đất
của
các
ngươi,
trước
ở
bên
này,
giờ
ụp
xuống
sông,
thì
kiểu
gì
nó
cũng
quẩn
sang
bên
kia
để
bồi
lắng.
Chứ
nó
chạy
đi
đâu
được.
Sang
đó
mà
lập
ấp,
dựng
một
toà
đình
mới,
ta
có
sắc
phong
ngay.
Câu
chuyện
của
bà
Lạc
tại
Bảo
tàng
Dân
tộc
học
sau
khi
trình
diễn
chế
biến
đất
ăn
và
ăn
đất
khiến
tôi
(trái)
bật
cười.
T.G
Vài
đời
sau,
chắc
đến
ông
vua
khác
rồi,
bên
kia
lại
bị
sông
ngoạm
(lở)
mất
làng
mạc,
nhà
cửa,
đình
điếm
-
thế
là
họ
lại
di
sang
bên
bồi
để
ở
và
xây
dựng
đình
làng.
Từ
bấy,
lúc
vào
nghề
báo
năm
1998,
tôi
đã
đi
viết
về
những
ngồi
đình,
các
cái
xóm
có
tên
trùng
nhau
ở
hai
bên
bờ
sông,
các
cộng
đồng
dân
cư
vốn
có
chung
huyết
thống,
thờ
chung
một
ông
thành
hoàng,
(đôi
khi)
cứ
zích
zắc
"nhân
bản"
trùng
tên
dọc
hai
bên
bờ
sông
Hồng…
Hành
trình
đất
lở
đất
bồi,
hành
trình
người
dân
đi
tìm
và
gắn
bó
với
đất
là
như
thế.
"Khi
ta
ở
chỉ
là
nơi
đất
ở,
khi
ta
đi
đất
đã
hóa
tâm
hồn".
Sống
lâu
thì
người
ta
"về
với
đất",
giờ
hoả
táng
thì
chung
quy,
cơ
bản
vẫn
là
đem
"yểm"
xương
cốt
hoặc
bột
xương
cốt
xuống
đất
mẹ
bao
dung.
Cánh
đồng
làng
là
nơi
cho
mùa
vàng,
cũng
là
nơi
nương
náu
của
mọi
linh
hồn
sau
hành
trình
kiếp
phận
trên
trần
gian.
Người
quê
tôi
gắn
bó
với
nhau,
có
khi
đôi
trai
gái
không
lấy
được
nhau
khi
trai
trẻ,
họ
hẹn
nhau
khi
góa
bụa
về
già
ở
chốn
quê
sau
cái
đời
đi
bạt
gió.
Rồi
lại
hẹn
nhau
trên
cánh
đồng
làng.
Nơi
vĩnh
viễn
không
có
sự
chia
xa
nào
nữa.
Hình
ảnh
đầu
tiên
về
tục
ăn
đất
ở
miền
núi
A
Pa
Chải
được
tôi
công
bố
trên
báo
chí.
Đ.D.H
Ở
các
vùng
sông
nước
mênh
mông
như
ĐBSCL,
bao
đời
trù
phú.
Hồi
mới
tập
tễnh
khám
phá
miền
Tây
Nam
Bộ,
khi
vẫn
còn
tuổi
đôi
mươi,
tôi
thắc
mắc:
sao
mỗi
đô
thị
xứ
này
cứ
đều
đặn
cách
nhau
sáu
bảy
tám
chục
cây
số
nhỉ?
Sài
Gòn
-
Mỹ
Tho
-
Vĩnh
Long
-
Bến
Tre
-
Trà
Vinh
-
Cần
Thơ
-
Sa
Đéc
-
Sóc
Trăng
-
Bạc
Liêu
-
Cà
Mau…
Tôi
thử
đi,
tôi
thử
đo,
tôi
hỏi
các
nhà
nghiên
cứu,
thì
hoá
ra:
xưa,
hồi
"bộ
khôn
bằng
ngựa,
thuỷ
khôn
bằng
thuyền",
lưu
dân
giong
thuyền
từ
xứ
nọ
sang
xứ
kia,
đi
từ
sáng
đến
tối
phải
nghỉ
ở
một
vở
đất,
một
khu
tá
túc
ăn
ngủ
nào
đó
(sau
này
là
khu
tiếp
nhiên
liệu,
giải
trí,
giao
lưu,
mua
bán
nữa).
Thế
thì
tốc
độ
thuyền
hồi
đó,
đi
một
ngày
được
khoảng
sáu,
bảy,
tám
chục
cây
số.
Họ
nghỉ,
thì
phải
có
dịch
vụ,
thế
là
hình
thành
một
khu
thị
tứ,
phình
ra
tí
nữa
là
một
thị
trấn,
quy
mô
thêm
chút
đỉnh
lại
thành
một
huyện,
tiến
tới
là
một
tỉnh.
Làm
đất
cấy
lúa
ở
huyện
Giang
Thành,
Kiên
Giang.
Ảnh:
Cao
Kỳ
Nhân
Ba
chữ
"cánh
đồng
làng"
bao
giờ
cũng
vang
lên
trong
những
người
con
xa
xứ
cùng
với
sự
ấm
áp
và
nỗi
niềm
"ta
về
với
mẹ
ta
thôi".
"Gió
đồng
rửa
mặt
tha
hương
/Ta
về
quê
chữa
vết
thương
giang
hồ".
Tương
tự,
ở
miền
núi
phía
Bắc,
chúng
tôi
cứ
đi
bộ
từ
tinh
mơ,
cơm
đùm
cơm
nắm,
vừa
đi
vừa
phát
đường
đuổi
vắt,
lúc
tối
giời
là
y
như
có
một
cái
chòm
dân
cư
hiện
ra.
Tôi
ào
ra
suối
tắm,
bỏ
cái
ba
lô,
cái
áo
khoác
ở
vai
ghế
nhà
nào
đó.
Là
tự
khắc
bà
con
sẽ
nấu
cơm,
dọn
giường,
bữa
đến
ra
suối
hú
gọi
cán
bộ
về
ăn
và
kin
lẩu
(uống
rượu).
"Tối
đâu
là
nhà,
ngã
đâu
là
giường",
là
hành
trình
và
phong
cách
của
những
kẻ
leo
núi
như
tôi
lúc
bấy
giờ.
Và
tôi
hiểu,
"đất
quê
ta
mênh
mông",
từ
sự
gắn
bó
với
đất
đai,
với
không
gian
sống
của
mỗi
thành
viên,
mỗi
nhu
cầu
trong
cộng
đồng;
mà
mọi
thứ
ra
đời
theo
một
quy
luật
vừa
dễ
hiểu
vừa
kỳ
thú
như
thế.
Ở
đất,
ăn
đất
"Đất
chăng
dây,
cây
dựng
sào",
đó
là
quy
định
"dân
gian"
trong
xử
lý
các
vấn
đề
đất
đai,
tranh
chấp,
chia
tài
sản.
"Về
với
đất"
là
bà
con
ta
ấm
áp
nói
về
sự
chia
xa
cõi
trần
gian
tục
lụy.
Ở
nhiều
vùng
tại
Việt
Nam,
ở
nhiều
quốc
gia,
người
dân
còn
có
thói
quen
lạ…
là
ăn
đất
theo
đúng
nghĩa
đen.
Tôi
phát
hiện
điều
này
tình
cờ
vào
năm
2002,
khi
đi
bộ
dọc
biên
giới
Việt
Trung,
có
mặt
ở
nga
ba
biên
giới
A
Pa
Chải,
huyện
Mường
Nhé,
tỉnh
Điện
Biên.
Vợ
của
ông
Phó
Chủ
tịch
UBND
xã
Chung
Chải,
cùng
cô
cháu
gái
tên
là
Pó
Sờ
gùi
đồ
giúp
tôi
khi
đi
bộ
vượt
núi
băng
rừng
nhiều
ngày
trời.
Lúc
ngồi
nghỉ,
bà
và
Pó
Sờ
cứ
moi
các
viên
đất
từ
vách
núi
ra
ăn
ngon
lành.
Như
người
ta
ăn
bánh
bao
hay
kẹo
lạc
vậy.
Tôi
phỏng
vấn,
về
mở
rộng
tìm
hiểu,
hoá
ra
ở
Hà
Nội
có
chuyên
gia
đã
nghiên
cứu
ban
đầu
về
chuyện
này,
với
huyền
tích
từ
thời
Hùng
Vương.
Sau
bài
báo
đầu
tiên,
tôi
đón
tiếp
nhiều
chuyên
gia
ở
các
viện
nghiên
cứu,
chúng
tôi
tổ
chức
các
cuộc
hội
thảo
quốc
tế
về
chủ
đề
này,
có
chuyên
gia
văn
hoá,
lịch
sử,
dân
tộc,
có
cả
các
nhà
dinh
dưỡng
học...
Hóa
ra,
trong
một
số
hoàn
cảnh
và
ở
nhiều
vùng
quê
đặc
trưng,
đất
ăn
cũng
"tốt
cho
sức
khoẻ"
và
bổ
sung
nhiều
vi
chất
cho
cư
dân.
Có
nhiều
nhà
báo
cùng
vào
cuộc
phân
tích,
đặc
biệt,
VTV3
làm
chương
trình
"Chuyện
lạ
Việt
Nam"
xung
quanh
cuộc
trình
diễn
nghề
"nướng"
(hun
khói
cho
thơm)
đất
bằng
lá
mua,
lá
sim
để
ăn
tại
Bảo
tàng
Dân
tộc
học.
Tôi
lái
xe
đưa
bà
Lạc
(người
ở
tỉnh
Vĩnh
Phúc)
về
Hà
Nội
trình
diễn
ăn
đất
và
chế
biến
đất
ăn.
Sau
này,
nhiều
công
trình
nghiên
cứu
ra
đời,
họ
mở
rộng
tìm
hiểu,
hóa
ra,
ở
Đức,
họ
còn
sản
xuất
đất
ăn,
đựng
vào
những
cái
lọ
rất
đẹp,
bán
trong
siêu
thị
sang
trọng.
Tôi
cũng
chứng
kiến
nhiều
cảnh
ăn
đất
trên
cả
nước.
Ở
huyện
Lập
Thạch,
tỉnh
Vĩnh
Phúc,
gần
đây
tôi
gặp
lại
bà
con
có
nghề
dịch
vụ
"chế
biến
đất
ăn".
Họ
đào
vườn
thành
những
giếng
sâu,
sau
khi
moi
hết
đất
màu
trăng
trắng,
ăn
mềm
mềm
bùi
bùi
lên
để
hun
khói
thơm
tho,
bán
ra
chợ
như
một
món
quà
quê
có
từ
thời
thượng
cổ…